Gói bánh tét là nét đẹp của ngày Tết Cổ truyền (Ảnh TL minh họa)
Tết của người Việt cổ
Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng là nhà nước đầu tiên của người Việt. Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Sách Giao Châu ngoại vực ký của người Hán viết hồi thế kỷ III cũng chép rằng: “Ở thời xưa Giao Chỉ chưa có quận huyện thì đất đai có ruộng Lạc, ruộng ấy theo nước triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng ấy mà làm ăn nên gọi là dân Lạc. Đặt Lạc vương, Lạc hầu làm chủ các quận huyện. Các quận huyện phần nhiều là Lạc tướng”.
Tài liệu này cho thấy, dân ta thời các vua Hùng làm ruộng Lạc. Từ ruộng Lạc mà cư dân gọi là Lạc dân, vua, quan cũng mang danh hiệu đó: Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc vương. Lạc vương chính là vua Hùng. Ngoài ra, nghề nông của người Việt dưới thời các vua Hùng cũng được phản ánh trong sự tích bánh chưng, bánh giầy, sự tích dưa hấu, trầu cau,...
Dân chúng thời Hùng Vương cũng thạo nghề bắt cá, chài lưới (điển hình bằng tục vẽ mình), nghề luyện kim (truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương) và nghề buôn bán (sự tích Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm). Sách Việt giám thông khảo tổng luận cũng chép về việc quản lý đất nước thời Văn Lang chủ yếu theo tục lệ cổ truyền: “Dân không có thói gian dối”, “buộc nút dây mà làm chính sự”.
Đặc biệt nhất là trống đồng Đông Sơn. Trống đồng Việt Nam phân bố ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu,... và cả hải đảo xa xôi Phú Quốc. Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa, trao đổi, trống đồng còn có mặt ở các quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan, Malaysia,... Trống đồng ngoài là một nhạc khí còn tượng trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh người Việt ngày xưa.
Việt Nam cũng có 2 di sản về thời đại Hùng Vương được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Đó là hát Xoan, những điệu hát có từ thời Hùng Vương, được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo tồn khẩn cấp năm 2011. Và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của việc thờ cúng tổ tiên của người Việt, được công nhận là Di sản văn hóa tâm linh tiêu biểu của nhân loại vào năm 2012.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, sử thần Ngô Sĩ Liên chép: “Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam - Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương”. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói dân tộc Việt là dòng dõi Thần Nông là vì Thần Nông dạy dân trồng trọt, tức ý chỉ dân tộc Việt là dân tộc làm nông để sinh sống.
Do nhu cầu canh tác nông nghiệp, người Việt cổ đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thời”. Trong đó, quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên đán. Sau này, nó được biết đến là Tết Nguyên đán, tức là Tết của người Việt.
Khổng Tử (511 - 479 TCN) là nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị nổi tiếng người Trung Hoa. Trong sách Kinh Lễ, ông viết: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn người Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó”.
Sách Giao Chỉ chí của Trung Quốc cũng có đoạn viết về Tết Nguyên đán: “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này”.
Tết dưới triều đại phong kiến Việt Nam
Trước tết là quãng thời gian chuẩn bị cho mùa vụ mới. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào đầu Xuân năm 987, vua Lê Đại Hành làm lễ Tịch điền, cày ruộng để khuyến khích dân chúng sản xuất. Đó là lễ Tịch điền đầu tiên ở Việt Nam được sử sách ghi nhận lại. Các triều đại như Lý, Trần,... sau đó rất coi trọng lễ Tịch điền. Vào thời nhà Nguyễn, vua Gia Long đã quy định ruộng tịch điền và vua Minh Mạng khôi phục nghi lễ này và coi như một đại lễ quan trọng. Sau nghi lễ, vua là người đầu tiên xuống ruộng cày, ba lần đẩy cày đi, ba lần đẩy cày lại, sau đó đến các vị hoàng công thân phiên cày năm lần rồi đến bá quan văn võ mỗi người cày chín lần, cuối cùng là các vị kỳ lão hương thôn và lão nông,... cho đến khi kết thúc.
Bên cạnh đó là lễ Tiến xuân được tổ chức vào tiết Lập xuân. Lễ Tiến xuân được chú trọng tổ chức nhằm mục đích khuyến nông, cầu nguyện cho thời tiết hanh thông, mùa màng thuận lợi. Vào thời Lê - Trịnh, ở Thăng Long, theo ghi nhận của một người nước ngoài từng chứng kiến, cứ đến lễ Tiến xuân, dân chúng nô nức đi hội. Dưới thời nhà Nguyễn, hai cơ quan là Khâm Thiên giám và Võ khố sẽ lấy nước và đất ở phương thần Tuế đất rồi nặn hình 3 con trâu cùng 3 vị thần chăn trâu (Mang thần) với hình tượng đứa bé. Mỗi con trâu đất thân cao 4 thước, dài 8 thước tượng trưng cho 4 mùa và 8 tiết, đuôi dài 1 thước 2 tấc để tượng trưng 12 tháng. Mang thần cao 3 thước, 6 tấc, 5 phân để tượng trưng 365 ngày; cái roi làm bằng cành liễu, dài 2 thước 4 tấc để tượng trưng 24 khí trong năm. Sáng sớm ngày Lập xuân, các quan đại thần mặc triều phục rước trâu đất và Mang thần với đủ nghi trượng, tàn, lọng cùng nhã nhạc, đi vào Hoàng thành đứng đợi.
Đến giờ, Nội giám tiếp nhận tiến lên nhà vua. Xong việc, các quan đều lui ra. Quan phủ Thừa Thiên về phủ thự, đưa trâu đất ra đánh 3 roi để tỏ ý khuyên việc cày cấy, khuyến khích nông nghiệp. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ ghi lại rằng: “Mang thần và trâu đất là lễ đời cổ để khuyên cày, lại là việc đầu xuân, có quan hệ đến gốc lớn của sinh dân... nguyên là ý chăm việc làm ruộng, khuyên bảo, giúp đỡ, ở Kinh thành đã cử hành trước thì các địa phương cũng nên tuân làm tất cả...”
Thời phong kiến, con trâu là sức kéo trong nông nghiệp nên rất được bảo vệ. Năm 1123, vua Lý Nhân Tông xuống chiếu nhắc nhở: “Trâu là con vật quan trọng cho việc cày cấy, lợi cho người. Từ nay cấm không được giết trâu ăn thịt. Ai làm trái thì trị tội theo pháp luật”. Luật Hình thư (thời Lý), Hình luật (thời Trần) đều có những điều khoản cụ thể quy định hình phạt về tội ăn trộm và giết hại trâu, bò. Những nhà láng giềng biết mà không tố giác cũng bị trừng phạt.
Tiếp đó là Tết, ngày lễ hội lớn của người Việt cổ nhằm đón mừng một vụ mùa nông nghiệp mới. Về bản chất, tết là khoảng thời gian nông dân được nghỉ ngơi, vui chơi trước khi bắt đầu một chu kỳ canh tác, gieo trồng mới. Bên cạnh đó, bữa cơm ngày thường của người Việt xưa, đặc biệt là người nông dân luôn thiếu thốn. Cho nên, ăn tết với đầy đủ vật chất (nhà cửa tươi mới, bàn thờ được lau dọn sạch sẽ, trang trí thêm cành đào, cành mai, nụ tầm xuân,...), nhiều món ngon vật lạ (bánh chưng, bánh giầy, bánh tét, dưa món, mứt, thịt heo,...) là ước mơ về sự đủ đầy trong cả năm.
Chúng ta đừng nên coi tết là một cái gì to tát lắm mà hãy coi đó là những ngày “nông nhàn” của nông dân thì sẽ dễ đồng cảm. Vì “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè…” chỉ là thiểu số, còn đa số nông dân luôn “trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm” để tiếp tục mùa vụ mới. Thậm chí, trong các ngày “nông nhàn” là tết, một bộ phận nông dân còn trở thành người buôn bán ở chợ hoặc trở thành người thợ thủ công để kiếm thêm thu nhập. Đó chính là nguồn gốc của các khu chợ chỉ họp vào ngày Tết Âm lịch như Phiên chợ Thiều (tỉnh Thanh Hóa), chợ đình Bích La (tỉnh Quảng Trị), chợ Gia Lạc (Huế), chợ Gò (tỉnh Bình Định),...
Như vậy, Tết là đặc trưng của văn hóa Việt cổ và là Tết Cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Nấu bánh chưng, bánh giầy, bánh tét, ăn trầu cau,... là những nét độc đáo vào ngày tết của người Việt cổ còn lưu lại đến tận bây giờ. Mừng Tết Nguyên đán Đọc bài thơ Ghét Tết của nhà thơ Tú Mỡ, chúng ta nhận ra nhà thơ ghét tết là do tết “phiền”. Phiền là do tết phải “tiêu pha thực tốn tiền”, “chè chén cứ liên miên” và phải tốn tiền mua pháo về đốt.
Lễ tịch điền mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu (Ảnh: internet)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta luôn kêu gọi người dân đón Tết Nguyên đán theo hướng tiết kiệm. Đầu năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về tham gia chống hạn ở xã Mễ Trì (Hà Nội). Khi ấy còn 1 tháng 10 ngày nữa mới đến Tết Nguyên đán năm 1958, tại buổi nói chuyện với nhân dân trong xã, Người góp ý: “Năm ngoái bà con ăn tết mổ lợn, mổ bò,... rồi thiếu trâu bò cày. Đấy là chưa kể rước sách linh đình, đồng bóng bói toán thật là lãng phí, ảnh hưởng không tốt đến thuần phong, mỹ tục. Năm nay, nhất định sửa. Tết năm nay phải là tết vui vẻ, lành mạnh, tiết kiệm”.
Ngày mùng 1 Tết năm 1965, sau khi thăm các cơ quan đoàn thể ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm công trường Việt Trì và phát biểu trước cán bộ, công nhân, chuyên gia các nước bạn đang giúp ta với những lời đầy tình cảm: “Cán bộ phải chú ý chăm lo sinh hoạt của anh em trong ngày tết. Đối với các đồng chí công nhân, cán bộ, bạn bè giúp ta mà phải xây nhà trong dịp Tết Nguyên đán này, ta càng chú ý săn sóc. Các anh em người Âu, Phi lâu nay đã quen với phong vị Tết Việt Nam nên làm sao cái Tết của xây dựng phải vui vẻ hơn Tết kháng chiến, song phải tránh những lãng phí không cần thiết”.
Ngày 18/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài Mừng Tết Nguyên đán như thế nào?, trong đó Người nêu những việc đáng chê, đáng khen trong việc ăn tết, nhắc nhở cán bộ phải làm gương, hướng dẫn nhân dân ăn tết vui vẻ, tiết kiệm.Người nhận định: “Suốt năm chúng ta thi đua lao động, sản xuất, những ngày Nguyên đán, chúng ta vui chơi một ngày để chào Xuân. Việc đó cũng đúng thôi. Nên chúng ta mừng Xuân một cách vui vẻ, lành mạnh. Nếu có bao nhiêu tiền bỏ ra mua sắm hết để đánh chén lu bù, thế là mừng Xuân một cách lạc hậu, thế là lãng phí, thế là không Xuân”. Người đã kêu gọi: Mừng Xuân, Xuân cả thế gian/ Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân.
Năm 1994, Chỉ thị 406 của Chính phủ đã cấm sản xuất, buôn bán và đốt các loại pháo nổ, thuốc pháo nổ trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/1995. Chỉ thị nêu rõ: “Do sản xuất và đốt pháo đã gây ra hàng ngàn vụ tai nạn, cháy nhà, chết người hoặc gây thương tật suốt đời, ảnh hưởng đến trật tự an ninh, tổn thất kinh tế, ô nhiễm môi trường rất lớn không thống kê được…” và “Để nhanh chóng khắc phục tình trạng trên, cũng là xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chung của nhân dân trong cả nước và thực hiện Nghị quyết của Quốc hội (khóa IX), kỳ họp thứ IV về thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí” nên Chính phủ nghiêm cấm sản xuất, buôn bán và đốt các loại pháo nổ, thuốc pháo nổ trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/1995. Do đó, Tết Âm lịch năm 1995 là cái Tết đầu tiên của nước ta vắng bặt tiếng pháo nổ.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước ta có quy định về mức xử phạt người uống rượu, bia tham gia giao thông cũng đã hạn chế việc “Chè chén cứ liên miên” như nhà thơ Tú Mỡ phiền lòng!
Nguyễn Văn Toàn