Tiếng Việt | English

08/04/2018 - 13:03

Hai nửa cuộc đời trong trái tim nhà thơ Giang Nam

Thế hệ người Việt Nam sinh ở cuối thập niên 60 trở về trước của thế kỷ XX, hầu như ai cũng biết và thuộc lòng bài thơ Quê hương của nhà thơ nổi tiếng - Giang Nam, song không phải ai cũng tường tận cuộc đời ông giữa thơ ca và đời thực gắn liền với nhau như máu thịt. Đời ông phân làm hai nửa, một nửa giành cho thơ ca, một nửa giành cho “em du kích”- người vợ quá cố mà ông yêu hơn bản thân mình

Nhà thơ Giang Nam đọc bài “Quê hương phiên bản 2”

Gần 1.000 ngày khóc thương “em du kích”

Tôi may mắn được gặp nhà thơ Giang Nam trong lần hai câu lạc bộ thơ Vũng Tàu và Trăng thơ Nha Trang giao lưu thơ ca tại TP.Nha Trang. Bên bàn ghế đá giữa thi đàn câu lạc bộ Trăng thơ, nhà thơ Giang Nam kể: Năm 1959, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. Để đàn áp và dập tắt phong trào đấu tranh chống chế độ Mỹ, Ngụy ở khắp miền Nam Việt Nam của nhân dân ta, Mỹ tiến hành Luật 10-59. “Lúc đó tôi tròn tuổi 30 làm ở Ty thông tin huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa). Vợ chồng cưới nhau được 4 năm, song xa nhau biền biệt. Do hoạt động cách mạng bảo đảm bí mật, nên cả hai vợ chồng không lộ diện. Có lúc, thấy vợ mình đó mà phải làm ngơ để che mắt địch” - Giang Nam chia sẻ

Theo chỉ đạo của cơ sở cách mạng, ông và vợ - bà Phạm Thị Triều khẩn cấp ra vùng ngoại tuyến tận Biên Hòa tỉnh Đồng Nai hoạt động cách mạng. Tại đây, ông bà được bố trí một gian nhà chật hẹp trong phố. Cũng thời gian này, bà Triều mang thai và sinh con gái đầu lòng. Tình hình thay đổi, cách mạnh yêu cầu Giang Nam quay về Ninh Hòa (Khánh Hòa) tiếp tục hoạt động. Giờ chia tay, bà Triều bế con gái đỏ hỏn tiễn biệt chồng, Giang Nam nhìn vợ con rơi nước mắt. Họ biệt ly trong nhớ thương và hẹn ngày đoàn viên. Đây cũng là lần thứ hai vợ chồng biền biệt xa nhau sau bốn năm năm ngày cưới

 Một chiều tháng 4 năm 1960, vợ bà Triều dẫn cô con gái nhỏ đi bán khoai lang trên đường phố thì bị địch bắt rồi đưa đi Sài Gòn Gia Định giam trong nhà tù Phú Lợi. “Khi nghe tin vợ và con gái bị giết, tôi như chết nửa người. Hình ảnh con gái đỏ hỏn lúc chia tay lúc nào cũng ám ảnh trong đầu. Vì quá đau buồn, tôi viết bài thơ Quê hương trong căn cứ bí mật trong vòng một đêm. Lúc đó viết dưới đèn dầu chứ không có điện như bây giờ” - Giang Nam hồi tưởng lại

Một sáng mùa thu năm 1962, trong niềm thương tiếc chưa nguôi ngoai vợ con chết trẻ, Giang Nam một lần nữa chết lặng người khi nhìn thấy vợ bỗng dưng dẫn con gái từ đâu xuất hiện trước mặt mình. Sau gần 1.000 ngày khắc khoải, đau thương chưa vơi, nhìn thấy vợ con trở về, ông bừng tỉnh hết ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. “Con thì tôi không nhận ra vì lúc chia tay nó đỏ hỏn nhưng vợ thì tôi không quên được. Bà ấy chạy ào đến gục đầu vào vai tôi khóc. Tôi cầm bàn tay bà ấy đưa lên ngực tôi. Lúc đó tôi mừng quá quên bế con, đến lúc con bé khóc tôi mới quì xuống bế nó” - Giang Nam kể lại

Hỏi về hình ảnh “em du kích” trong bài thơ quê hương có phải vợ ông không? Giang Nam chia sẻ: “Lúc đó tôi quá đau khổ. Dưới ngọn đèn dầu, đêm đó tôi vừa viết, vừa khóc. Các bạn đọc câu “giặc giết em rồi quăng mất xác, bởi vì em là du kích em ơi” quá bi đát, nhưng cũng rất tự hào. Hình ảnh cô du kích là vợ tôi, nhưng thân xác thì không phải. Thật lòng, nếu không có sự kiện địch bắt vợ con tôi đem giam trong nhà tù Phú Lợi rồi phao tin vợ con tôi bị giặc giết, chắc hẳn tôi không có cảm xúc như vậy. Cả đời làm cách mạng, vợ chồng ở bên nhau thời gian chẳng được bao lâu. Năm 1968, bà ấy bị bắt lần hai cùng con gái do bị lộ vì sơ suất nhỏ. Năm 1973, tức là sau hiệp định Paris bà ấy được trao trả. Lúc đó con gái cũng lớn, vợ chồng tuổi cao nên không sinh con nữa. Bà nhà mất năm 2013 tại TP.Nha Trang này”

Phiên bản “Quê hương 2” của Giang Nam

Quê hương 2

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Cặp nặng oằn vai nhét đầy sách vở

Ai bảo đi học không khổ

Tai lùng bùng mặc chim hót trên cao

Hãi quá, đành trốn học rủ bạn tắm cầu ao

Mẹ bắt được thấy bầm vai con mẹ khóc

Học về bé nào cũng mệt nằm lăn lóc

Cơm nước chẳng màng xanh xao quá đi thôi

Quá tải triền miên lãnh đủ trường kỳ

Lâm bệnh nặng, tôi đi

Có ai ngờ mấy đứa nhà bên cũng vào bệnh viện

Gặp nhau chào bằng nụ cười méo miệng

Khoe lưng bầm thương thương quá đi thôi

Xưa đi học vì muốn sung muốn sướng

Những nụ cười rạng rỡ nở trên môi

Nay quá “oải” vì trong từng niên khóa

Gặp chương trình cải cách kiểu trời ơi!

Trước khi “Quê hương” ra đời, Giang Nam có bài thơ khác mang tên “Nghe  tin em vào đại học”. Ông chia sẻ: “Quê hương là bài thơ tôi tâm đắc nhất. Nói đến bài thơ Quê hương, những người sinh ra ở cuối thập niên 60 trở về trước, hầu như ai cũng biết, cũng thuộc, còn lớp trẻ bây giờ không ai biết. Từ bài thơ Quê hương ngày xưa, tôi sáng tác “phiên bản quê hương 2”. Bài này thì lớp trẻ nay nhiều người nhớ.

Giang Nam đưa cho tôi xem cuốn sổ nhỏ ghi chép dầy dít chữ. Trong đó có bài thơ Quê hương được ông sáng tác “phiên bản 2” cùng tên.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, quê gốc ở xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông sinh năm 1929 trong gia đình nho học. Ông tham gia hoạt động cách mạng Việt Minh từ tháng 8/1945 và làm thơ từ thời trẻ. Nhưng thơ ông chính thức được nhiều người biết đến từ năm 1955-1960, trong đó có bài thơ kinh điển nổi tiếng Quê hương đưa vào trích giảng văn học phổ thông trong hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam ở thế kỷ XX. Cho đến bây giờ, Giang Nam sở hữu hơn 200 bài thơ nhiều thể loại khác nhau với 11 tập, song chưa bài thơ nào vượt qua bài thơ quê hương. Năm 1961, bài thơ này đoạt giải nhì về thơ báo văn nghệ./.

Mai Thắng

Chia sẻ bài viết